Tác giả | Howard Gardner |
ISBN | 9786049850431 |
ISBN điện tử | 9786043402247 |
Khổ sách | 16 x 24 cm |
Năm xuất bản (tái bản) | 2019 |
Danh mục | Howard Gardner |
Số trang | 468 |
Ngôn ngữ | vi |
Loại sách | Ebook;Sách giấy; |
Quốc gia | Việt Nam |
1) Tác giả
Howard Gardner được biết đến cuốn sách Cơ cấu trí khôn: Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn. Trí khôn phi học đường được xem là tác phẩm quan trọng thứ hai của ông.
Dịch giả Phạm Anh Tuấn: Người đã dịch nhiều cuốn sách sang tiếng Việt: Dân chủ và giáo dục, Huyễn tưởng thượng đế, Tiểu luận Jean Piaget...
2) Tác phẩm
Cuốn TRÍ KHÔN PHI HỌC ĐƯỜNG [The Unschooled Mind] được viết cho đối tượng độc giả nào đây? Có lẽ tác giả Howard Garner đã đoán trước việc luận điểm chính trong cuốn sách này sẽ gây ngạc nhiên, thậm chí gây “sốc” cho nhiều nhà nghiên cứu.
Có lẽ, ông mường tượng tình hình sẽ giống với tác phẩm Frames of Mind: Theory of Multiple Intelligences [Cơ cấu trí khôn: Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn (hay Trí khôn đa diện)[1]], xuất bản lần đầu tại Mĩ năm 1983, đúng vào năm Tổng thống đệ trình Quốc hội bản phúc trình liên quan đến giáo dục: A NATION AT RISK (Quốc gia lâm nguy). Bản tiếng Việt, Cơ cấu trí khôn: Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn, do nhà giáo Phạm Toàn dịch, xuất bản năm 1997 rồi sau đó được tái bản rất nhiều lần.
Ta cùng đọc lại một lời bộc bạch của dịch giả Phạm Toàn viết trong cuốn tiểu luận chuyên khảo của ông, Hợp lưu các dòng tâm lí học giáo dục: “…năm 1997, chính một người bạn Mĩ tặng tôi cuốn Frames of Minds: Theory of Multiple Intelligences, đã cung cấp cho tôi một bản tài liệu điều tra học sinh Mĩ học dốt ra sao khiến người đứng đầu nền hành pháp nước ông phải tuyên bố “Quốc gia lâm nguy” và tiến hành cải cách giáo dục”.
Sau Frames of Mind, ở Mĩ, hễ nói đến giáo dục phổ thông là hầu như người ta mặc nhiên coi đó phải là giáo dục hay các trường học của “nhiều dạng trí khôn” (MI schools).
Năm 1991, The Unschooled Mind của Howard Gardner ra mắt lần đầu tiên tại Mĩ. Vào cuối những năm 1990, nhà giáo Phạm Toàn cũng được tặng một bản tiếng Anh (nhờ mối quan hệ thân quen với tác giả Howard Gardner thông qua thư kí của Howard Gardner).
Hãy cùng đọc những lời tâm tình của Howard Gardner, được đưa vào ấn bản Trí khôn phi học đường kỉ niệm 10 năm ra mắt lần đầu (ấn bản năm 2011): “…Nhưng chỉ tới đầu những năm 1980 tôi mới bắt đầu tham gia tích cực vào lĩnh vực nghiên cứu và thực hành giáo dục. Có hai sự kiện tưởng như chẳng liên hệ với nhau, đã khuyến khích tôi tham gia. Sự kiện thứ nhất là việc tôi xuất bản cuốn Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences. Tôi những tưởng cuốn sách này là một đóng góp cho tâm lí học chủ đạo ngày ấy, nhưng thật ngạc nhiên, chính những nhà giáo trực tiếp đảm đương công việc dạy học trong nhà trường lại tỏ ra quan tâm và nhiệt tình hơn nhiều so với những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lí học. Trước đấy, tôi vẫn thường nghĩ một học giả “thuần túy” thì hãy cứ làm việc của mình đi, chẳng cần để ý nhiều quá tới phản ứng của người ngoài, nhưng chí ít, ở trường hợp của tôi thì dần dà tôi đã chuyển sang tin rằng những hồi âm động viên của nhiều nhà giáo cho thấy tôi đã có đóng góp nào đó cho lĩnh vực của họ” (sự kiện thứ hai là bản báo cáo “Quốc gia lâm nguy”).
Cũng vào cuối những năm 1990, nhà giáo Phạm Toàn rất muốn tự mình dịch Trí khôn phi học đường. Song, thật buồn phiền khi rốt cuộc ông đã không thể làm được việc ông rất mong muốn này. Cái “trí khôn phi học đường”, nó tồn tại dai dẳng, với sức mạnh, với quyền năng đôi khi bất khả cưỡng lại, ở mỗi con người chúng ta, từ lúc sinh ra cho tới khi trưởng thành, và tiếp tục tồn tại dai dẳng sau đó ở hầu hết chúng ta. Không có trí khôn phi học đường, trẻ em không thể học, không thể trưởng thành, nhất là ở giai đoạn “học nói”. Song qua mỗi bước trưởng thành của trí khôn, trí khôn phi học đường để lại những “dấu vết”, đôi khi rất khó nhận ra. “Ở hầu hết mọi người học đều tồn tại dai dẳng một trí khôn “phi học đường”của đứa trẻ lên 5 đang vùng vẫy đòi thoát ra ngoài để tự bộc lộ” (Howard Gardner, Trí khôn phi học đường).
Nhưng khung tham chiếu của “trí khôn phi học đường” rộng và khó nhận ra, thậm chí bí ẩn hơn nhiều, chứ không chỉ giới hạn ở sự học tập. Con người ta tự gây ra cho mình những “ràng buộc”, những trói buộc (constraint). Những ràng buộc ấy được thấy ở mọi dạng “người học”: trẻ em học theo lối “tự nhiên”, người lớn học theo lối “chuyên gia”, người dạy học, người biên soạn sách giáo khoa cho trẻ em; và ở mọi cấp độ: có những ràng buộc mang tính bản thể học (ontological), gắn liền với bản chất người, lại có những ràng buộc gắn liền với một “thể chế” hay một kiểu nền giáo dục nào đó, một “giai đoạn” nào đó của một nền giáo dục, một kiểu sách giáo khoa nào đó, một kiểu kiểm tra-đánh giá nào đó v.v. Điểm chung là những sự ràng buộc như vậy đều do con người ta tự mình gây ra cho chính mình.
Năm 2009, nhà giáo Phạm Toàn thành lập một nhóm nghiên cứu-biên soạn-thực hành sách giáo khoa dành cho nhà trường phổ thông, ông đặt tên nhóm là CÁNH BUỒM. Trong 10 năm hoạt động giáo dục, cho tới khi qua đời năm 2019, nhà giáo Phạm Toàn đã để lại một sự nghiệp có ý nghĩa lớn: ông đã cùng CÁNH BUỒM biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa từ lớp Một đến lớp Chín.
Ý nghĩa của công trình này còn nằm ở chỗ nhà giáo Phạm Toàn đã biết cách tự “cởi trói” chính mình, biết vượt lên trên nhiều ràng buộc.
Howard Gardner, để kết thúc cuốn Trí khôn phi học đường, đã dẫn một câu nói của nhà soạn nhạc người Nga thế kỉ XX Igor Stravinsky: Càng bị nhiều ràng buộc áp đặt, mỗi người lại càng phải tự mình giải phóng chính mình khỏi những xích xiềng cùm trói tinh thần (“The more constraints one imposes, the more one free one’s self of the chains that shackle the spirit”).
Nhà giáo Phạm Toàn đã “không kịp” tự tay mình dịch Trí khôn phi học đường, dù rất mong muốn, song ông đã kịp có một bài điểm sách rất kĩ lưỡng, được ông đưa vào cuốn chuyên khảo tâm lí học Hợp lưu các dòng tâm lí học giáo dục xuất bản lần đầu năm 1997. Bản dịch này cũng được xem như một nén tâm nhang tưởng nhớ ông.
(Trích Lời người dịch)
[1]Bản dịch tiếng Việt Cơ cấu trí khôn: Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn của nhà giáo, dịch giả Phạm Toàn (người sáng lập Nhóm Cánh Buồm) xuất bản lần đầu năm 1987, tái bản năm 1988, 2012, 2014, 2016, 2018. (ND) (Xin lưu ý: những chú thích ở cuối trang là của tác giả, trừ phi được ghi rõ chú thích của người dịch “ND”).
Đôi lời của người dịch
TRÍ KHÔN PHI HỌC ĐƯỜNG nhìn lại sau 20 năm
Chương 1: Dẫn nhập: Những bí ẩn lớn về sự học tập
Học bằng trực giác và học trong nhà trường
Đi tìm một khung lí thuyết về ba dạng người học
Bảy dạng trí khôn
Cơ sở lí thuyết
Bản tính người, những định chế và những giá trị: bố cục cho cuốn sách này
Phần I: Người học "tự nhiên"
Chương 2: Sự ra đời của khái niệm về sự phát triển của trí khôn
Những nghiên cứu đầu tiên về trí khôn
Những nghiên cứu tiên phong của Jean Piaget về sự phát triển của trí khôn
Nghiên cứu về trí khôn sau Piaget
Cầu nối sinh học với văn hóa
Chương 3: Sự học tập ở giai đoạn đầu đời: những ràng buộc và khả thể
Nghị trình của triết học
Trí khôn trẻ sơ sinh như cái máy đã được tinh chỉnh chính xác
Sự nhận thức của trẻ sơ sinh theo mô tả của Piaget
Nhận biết thế giới xã hội
5 chú thích bổ sung về nhận thức cảm giác-vận động
Chương 4: Nhận thức thế giới bên ngoài qua các biểu trưng
Những nhànghiên cứu về biểu trưng
Ngôn ngữ là một hệ thống biểu trưng
Phân loại vật và sự kiện
Trò chơi, trí tưởng tượng và sự xuất hiện tư duy lí luận
Một nghiên cứu về biểu trưngở giai đoạn đầu đời của trẻ
Tính đa nguyên hóa và tính cá biệt hóa các cách nhận thức
Chương 5: Thế giới của trẻ trước tuổi đi học: sự trội hiện những nhận thức bằng trực giác
Lí luận có tính trực giác của con trẻ
Các thiên hướng ban đầu khác ở trẻ
5 ràng buộc tác động tới sựhọc tập sau này
Một dự báo phát triển
Sức mạnh và hạn chế của trí khôn ở trẻ lên 5 tuổi
Phần II: Hiểu về những định chế giáo dục
Chương 6: Những giá trị và truyền thống của giáo dục
Lựa chọn I: Phải dạy gì?
Những phương diện của nhận thức
Tùy chọn giáo dục II: Tri thức phải được dạy như thế nào?
Một định chế làm công việc giáo dục: định chế truyền nghề-học việc
Chương 7: Định chế được gọi tên là nhà trường
Trường học đầu tiên
Bổn phận của nhà trường
Ba gánh nặng của trường học thế tục hiện đại
Đánh giá sự học tập
Tác dụng thực sự của nhà trường
Những ràng buộc có tính định chế
Chương 8: Những khó khăn do nhà trường gây ra:
Trẻ có những quan niệm sai lầm khi học các môn khoa học
Tính đa dạng của nhận thức
Những quan niệm sai của trẻ khi học môn vật lí
Những quan niệm sai của con trẻ khi học môn sinh học
Những vấn đề trong môn toán: áp dụng cứng nhắc các quy tắc giải toán (thuật toán)
Chương 9: Những khó khăn khác do nhà trường gây ra:
Tư duy khuôn mẫu quen thuộc trong các môn khoa học xã hội và nhân văn
Những vấn đề trong môn kinh tế và thống kê
Tư duy khuôn mẫu quen thuộc và giản lược hóa trong các môn khoa học nhân văn
Những vấn đề trong môn lịch sử và môn văn
Tư duy giản lược hóa trong các môn nghệ thuật
Một số kết luận về những quan niệm sai và những định kiến khuôn mẫu quen thuộc
Phần III: Hướng tới giáo dục vì sự nhận thức đích thực
Chương 10: Tìm kiếm các giải pháp: Tình trạng bế tắc và những phương tiện đem lại hứa hẹn
Hạn chế của các kĩ năng cơ bản
Kiến thức văn hóa tổng quát theo chuẩn quốc gia
Dòng truyền thống trong giáo dục
Dòng tiến bộ trong giáo dục
Những hạn chế của giáo dục tiến bộ
Chương 11: Giáo dục vì sự nhận thức đích thực trong những năm đầu đời
Môi trường giáo dục cho trẻ nhỏ
Chương trình Spectrum, một ví dụ
Phát triển các kĩ năng đọc, viết ở giai đoạn đầu trong nhà trường
Giai đoạn trung học cơ sở: phương pháp học tập theo kiểu truyền nghề - học việc và học bằng dự án
Giáo dục nhà trường vì sự nhận thức đích thực ở cấp trung học cơ sở
Chương 12: Giáo dục nhắm tới sự nhận thức đích thực của học sinh ở giai đoạn vị thành niên
Những đổi mới trong chương trình học
Nuôi dưỡng sự nhận thức của cá nhân: năm điểm bắt đầu
Chương 13: Hướng tới giáo dục nhắm tới sự nhận thức đích thực:
Tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn toàn cầu
Câu chuyện kể cho tới nay
Bốn điểm nút của cải cách nhà trường
Giáo dục được kiểm soát bởi cộng đồng so với kiểm soát bởi nhà nước
Xác định và xây dựng những tiêu chuẩn về nhận thức theo tiêu chuẩn quốc gia
Những ràng buộc và cơ hội: một nền giáo dục được điều chỉnh theo các giai đoạn phát triển
Bảng chỉ mục các tác giả